![translation](https://cdn.durumis.com/common/trans.png)
Đây là bài viết được dịch bởi AI.
Chọn ngôn ngữ
Văn bản được tóm tắt bởi AI durumis
- Milton Friedman đã chỉ trích Hiệp hội Y khoa là một tổ chức độc quyền nhằm độc chiếm thị trường y tế, và ông lập luận rằng sự phản đối việc mở rộng hạn ngạch tuyển sinh vào trường Y là nhằm bảo vệ lợi ích của các bác sĩ.
- Cuộc tranh luận về hạn ngạch tuyển sinh vào trường Y phản ánh sự xung đột giữa tính công cộng của dịch vụ y tế và logic của thị trường tư nhân, và điều quan trọng là phải tìm kiếm sự cân bằng giữa việc bảo vệ lợi ích của các bác sĩ và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người dân.
- Cùng với cuộc tranh luận về việc mở rộng hạn ngạch tuyển sinh vào trường Y, cần có những cuộc thảo luận rộng rãi về hệ thống cung cấp dịch vụ y tế, mức phí y tế và thể chế y tế, và cần phải tìm kiếm giải pháp hợp lý thông qua sự đồng thuận giữa chính phủ, các tổ chức y tế và người dân.
Nếu Milton Friedman chứng kiến cuộc tranh luận về số lượng sinh viên y khoa ở Hàn Quốc
Milton Friedman, người khổng lồ trong kinh tế học thị trường tự do, đã lập luận rằng lợi ích do công đoàn tạo ra là do cướp đi những lợi ích khác nhau thuộc về những người không phải là thành viên công đoàn. Trong số tất cả các công đoàn ở Hoa Kỳ, Friedman đã chỉ ra rằng Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA) là một trong những công đoàn vững chắc nhất.
AMA được thành lập vào năm 1847 với mục tiêu cao cả là "cải thiện sức khỏe cộng đồng và thúc đẩy tiến bộ y học". Tuy nhiên, Friedman chỉ trích rằng AMA chỉ là một tập đoàn nhằm ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh gia nhập thị trường y tế thông qua việc hạn chế cấp phép hành nghề y, chẳng hạn.
Một trong những ví dụ ông đưa ra là hành vi của AMA khi hàng loạt bác sĩ Do Thái gốc Đức trốn sang Hoa Kỳ sau khi Đức Quốc xã lên nắm quyền vào đầu những năm 1930. Cho đến thời điểm đó, ở Hoa Kỳ, chỉ cần tốt nghiệp trường y là có thể tham gia kỳ thi lấy bằng hành nghề y mà không cần điều kiện gì khác, nhưng AMA đột nhiên yêu cầu phải có "quốc tịch Hoa Kỳ" làm điều kiện bắt buộc. Đó là một nỗ lực để ngăn chặn các bác sĩ Do Thái gốc Đức nhập cư vào Hoa Kỳ hoạt động khám chữa bệnh.
Xét đến thực tế rằng y học Đức là một trong những ngành hàng đầu thế giới, không chỉ trong hiện tại mà còn trong quá khứ, quan điểm của Friedman là hành động này không phải là nhằm mục đích bảo vệ bệnh nhân mà là bảo vệ lợi ích của các bác sĩ Hoa Kỳ.
Trong thời kỳ Đại khủng hoảng những năm 1920, AMA đã công khai hơn trong việc bảo vệ lợi ích của mình.
Trước những động thái của chính phủ nhằm tăng cường số lượng bác sĩ, AMA đã phản đối bằng cách lập luận rằng "nếu số lượng bác sĩ tăng lên, thu nhập của bác sĩ sẽ giảm xuống và có thể dẫn đến hành vi y tế phi đạo đức".
Đây là một luận điểm lặp đi lặp lại ở Hàn Quốc ngày nay.
Gần đây, Hiệp hội Y khoa Hàn Quốc đã phản đối chính sách mở rộng số lượng sinh viên y khoa của chính phủ bằng cách lập luận rằng "nếu số lượng bác sĩ tăng lên, sẽ dẫn đến điều trị quá mức và phá sản quỹ bảo hiểm y tế" hoặc "nếu số lượng sinh viên y khoa tăng lên, chất lượng đào tạo sẽ giảm sút".
Điều trị quá mức, giống như ăn cắp, là một vấn đề về ý thức nghề nghiệp và đạo đức của từng bác sĩ. Các biện pháp ngăn chặn điều trị quá mức có thể bao gồm tăng cường kiểm tra và trừng phạt đối với các bác sĩ, hoặc giáo dục đạo đức, nhưng không liên quan gì đến số lượng sinh viên y khoa.
Luận điểm cho rằng điều trị quá mức sẽ gia tăng nếu số lượng sinh viên y khoa tăng lên nghe như một "trò đùa tự giễu" khi quy kết toàn bộ các bác sĩ là những tội phạm tiềm ẩn.
Trong một bài phát biểu sau khi nhận giải Nobel Kinh tế học năm 1976, Friedman đã nói: "Nếu có bằng chứng khoa học nào cho thấy mối tương quan giữa việc tăng số lượng bác sĩ và việc gia tăng hành vi y tế phi đạo đức, xin hãy trình bày". Mặc dù có những nỗ lực đưa ra các mô hình như "nhu cầu dẫn dắt bởi nhà cung cấp" thiếu tính thực nghiệm, nhưng chúng vẫn chưa thể giải đáp câu hỏi của Friedman.
Khả năng chất lượng giáo dục y khoa giảm sút được đưa ra như một lý do phản đối việc mở rộng số lượng sinh viên y khoa cũng thiếu căn cứ. Ngay cả trong trường hợp môi trường đào tạo y khoa bị suy giảm, đó là trách nhiệm của cơ quan giáo dục và các trường đại học phải giải quyết vấn đề này. Việc chất lượng giáo dục y khoa có giảm sút hay không vẫn chưa chắc chắn, vì vậy đây không phải là vấn đề mà giới bác sĩ nên can thiệp.
Friedman phân tích rằng các bác sĩ ở Hoa Kỳ đã quản lý cạnh tranh trên thị trường y tế thông qua việc hạn chế cấp phép hành nghề, giúp họ kiếm được thêm 17-30% thu nhập. Theo một cuộc khảo sát gần đây, mức lương trung bình của bác sĩ ở Hoa Kỳ là 350.000 đô la (khoảng 460 triệu won). Đây là mức lương hàng đầu trong số các ngành nghề chuyên nghiệp.
Hàn Quốc, nơi số lượng sinh viên y khoa được quản lý chặt chẽ, cũng tương tự. Theo dữ liệu của Cơ quan thuế quốc gia, thu nhập của bác sĩ năm 2021 là 269 triệu won, cao hơn hẳn so với các ngành nghề chuyên nghiệp khác.
Năm 2020, thu nhập trung bình của luật sư chỉ bằng 40% thu nhập của bác sĩ, thấp hơn so với năm 2014 (60%). Tất nhiên, trong xã hội tư bản, việc các ngành nghề có nhu cầu cao được trả lương cao là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, câu chuyện sẽ khác nếu một nhóm ngành nghề chuyên nghiệp nhất định sử dụng phương tiện hạn chế cạnh tranh để kiếm được mức lương cao hơn.
Trách nhiệm của chính phủ là sửa chữa sự bóp méo thị trường này. Việc thuyết phục một nhóm có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội như giới bác sĩ không phải là điều dễ dàng, nhưng những người tiêu dùng đang phải chịu đựng sự thiếu hụt cung ứng sẽ hoan nghênh các biện pháp mạnh mẽ của chính phủ nhằm bình thường hóa thị trường.
{Nguồn: [Nhìn từ phóng viên] Nếu Milton Friedman chứng kiến cuộc tranh luận về số lượng sinh viên y khoa ở Hàn Quốc (msn.com) của phóng viên Go Il-hwan, ngày 5 tháng 11 năm 2023}
Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA) và Hiệp hội Y khoa Hàn Quốc đều phản đối chính sách của chính phủ, lập luận rằng việc tăng cường số lượng sinh viên y khoa có thể dẫn đến điều trị quá mức và giảm chất lượng giáo dục y khoa.
Tuy nhiên, cần lưu ý lời khẳng định của Milton Friedman, người đoạt giải Nobel Kinh tế học, rằng "Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA) chỉ là một tập đoàn nhằm ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh gia nhập thị trường y tế thông qua việc hạn chế cấp phép hành nghề y". Nếu những lập luận của họ là thuần túy và hợp lý, họ nên được miễn trừ khỏi những lời chỉ trích này.
Cá nhân tôi cho rằng vấn đề cấp bách nhất là thiết lập hệ thống chuyển tuyến y tế (hệ thống y tế cấp 1-3) và xác định giá trị dịch vụ y tế và thiết lập chế độ y tế phù hợp với hệ thống này. Để làm được điều này, chính phủ, các tổ chức y tế và người tiêu dùng cần phải thảo luận trong thời gian dài để tìm kiếm điểm chung. Sau đó, cần thảo luận về số lượng sinh viên y khoa từ góc độ cân bằng cung cầu trên toàn thị trường y tế.
Thu nhập của nhân viên y tế sau khi tốt nghiệp trường y có thể được xác định dựa trên tăng trưởng kinh tế quốc gia và thu nhập bình quân của người dân. Tuy nhiên, điều này sẽ phụ thuộc vào việc quốc gia sẽ xây dựng chính sách dịch vụ y tế theo mô hình nào, bao gồm dịch vụ y tế công cộng hoàn toàn, dịch vụ y tế công cộng + dịch vụ y tế tư nhân hoặc dịch vụ y tế tư nhân hoàn toàn.
Cả ba dịch vụ y tế này đều có những ưu điểm và nhược điểm, vì vậy quốc gia cần phải lựa chọn dịch vụ phù hợp với mình và xây dựng nền tảng cho dịch vụ đó.
Hầu hết các quốc gia đều biết những ưu điểm và nhược điểm của dịch vụ y tế công cộng ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa và các nước thuộc Khối thịnh vượng chung, nơi coi trọng y tế công cộng, và dịch vụ y tế tư nhân tối đa ở Hoa Kỳ, nơi dựa trên nền kinh tế thị trường tự do hoàn toàn. Dường như không quốc gia nào dám cải cách mạnh mẽ vì sự tranh giành quyền lực giữa các chính trị gia và các nhóm lợi ích liên quan, và việc đưa ra chính sách dịch vụ y tế dựa trên lợi ích của các chính trị gia.
Ngày 5 tháng 11 năm 2023, Tham dự